 |
Ông Nguyễn Phúc Ưng Viên |
Trên
thế giới, giá bán cao nhất 1 kg trầm hương có thể lên tới 160 triệu
đồng, còn giá 1 kg
kỳ nam thì lên đến mức hoang tưởng: 7 tỉ đồng. Sự kỳ dị đó của giá cả,
cộng với sự thiếu trách nhiệm trong quản lý tài nguyên thiên nhiên đã
khiến cho trầm hương vốn không bao giờ thiếu trên rừng núi chúng ta suốt
hơn 4.000 năm qua, đã gần như bị tuyệt chủng chỉ trong vòng 35 năm.So
với giá cả trên mây xanh thì những tri thức về trầm hương vẫn còn dưới
mặt đất. Người ta biết quá ít về nó. Tri thức về trầm hương nghèo nàn
đến mức sách vở chỉ trích qua trích lại 2 tài liệu, xưa nhất là của Lê
Quý Đôn (Phủ biên tạp lục), gần nhất là của Đỗ Tất Lợi. Còn tài liệu
khoa học trên thế giới thì chủ yếu nói về đặc tính của cây dó, liệt kê
các hoạt chất và một số dược lý của trầm, chưa ai nói được cặn kẽ trầm
được
hình thành như thế nào, có những giá trị độc đáo gì mà giá của nó mắc
đến như vậy.“Trong đau thương dó biến thành trầm”, tôi từng đọc ở
đâu đó câu thơ này, nó khiến ta suy tư về lẽ sinh tồn của đời người.
Trầm đã hình thành đúng như thế. Khi nào thân cây dó bị một vết thương
(do va đập, do bị côn trùng đục, bị bom đạn...), xung quanh vết thương
đó lâu ngày biến thành trầm. Vì hiểu được “nguyên lý” này nên ngày nay
người ta có thể làm trầm “nhân tạo”, tức là trồng cây dó rồi tạo ra vết
thương, cấy hóa chất vào để gây tác động cho ra trầm. Đến nay, nhiều
người đã trồng dó và đã lấy được trầm theo phương pháp trên, tuy trầm
nhân tạo có mùi thơm của trầm nhưng giá trị như thế nào thì vẫn còn mù
mờ.
Thực
ra, tôi không quan tâm mấy đến trầm hương, ngoài sự liên tưởng về cái
“đau thương” nói trên. Cho đến khi tôi gặp được một kỳ nhân dụng trầm
tôi mới hiểu sự “đau thương” đó có quá nhiều bí ẩn.Đó là ông Nguyễn
Phúc Ưng Viên. Là cháu nội hoàng tử thứ 12 con vua Minh Mệnh, ông Ưng
Viên gọi vua Minh Mệnh bằng ông cố. Theo “đế hệ thi” của vua Minh Mệnh
thì hàng “Ưng” ngang với vua Hàm Nghi và là hàng ông nội của vua Bảo
Đại. Hàng “Ưng” nay chỉ còn vỏn vẹn 3 vị: ông Ưng Linh hiện ở Đà Nẵng
gần 90 tuổi, ông Ưng Ân ở Huế gần 80, ông Ưng Viên trẻ nhất, mới xấp xỉ
70. Giải thích về thứ bậc và tuổi
tác của mình trong dòng họ, ông bảo: “Tôi thuộc dòng thứ”.Ông Ưng
Viên sống ở TP.HCM như một ẩn sĩ âm thầm chữa bệnh cứu người. Từng có
thời gian tiếp cận khá sâu vào ngành y của người Mỹ, nhưng ông không
theo nghề bác sĩ mà chuyên tâm ứng dụng thuốc nam - xin lưu ý là thuốc
nam chứ không phải thuốc bắc. Cả nhà ông không bao giờ sử dụng thuốc
tây, kể cả đối với những vật nuôi như con heo con gà. Ông bảo dân tộc
Việt từ một nhóm nhỏ mấy ngàn người, đã dựa vào thiên nhiên mà sống, mà
sinh sôi phát triển mà mở rộng bờ cõi, đến nay đã lên tới hơn 80 triệu
người, dân tộc đó ắt phải biết cách phòng và chữa bệnh bằng chính những
gì mình có. Thuốc tây mới du nhập vào khoảng 150 năm nay thôi. Thế giới
có biết bao nhiêu là trận
dịch chết người hàng loạt, còn trong suốt chiều dài lịch sử của mình,
Việt Nam có một trận dịch nào khiến nhiều người chết không? Chết hàng
loạt vì đói thì có, còn chết hàng loạt vì dịch thì không.Cây
trầm ở độ cao 1.500m trong dãy Yang Sin (Buôn Ma Thuột) trên 100 năm
tuổi, mật độ nhiễm trầm 80% được ông Ưng Viên tạc thành tượng Phật.
Tượng cao 2,82m, chu vi đế 3m Ông cũng không coi trọng thuốc bắc
bằng thuốc nam. Ông bảo từ ngàn năm trước người Việt hằng năm phải cống
nạp các thầy thuốc giỏi cho Trung Quốc. “Dòng họ tôi, chỉ riêng thời
nhà Đinh đã phải cống nạp đến 18 thầy thuốc giỏi sang Tàu”, ông nói.La sơn phu tử Nguyễn Thiếp đã từng nhắc vua Quang Trung rằng nước Nam ta sẽ còn phụ thuộc vào Trung Quốc
chừng nào vẫn còn phụ thuộc vào thuốc bắc.Tổ chức Y tế thế giới
ngày nay cũng khuyến nghị loài người nên áp dụng những thức ăn - dược
liệu hữu ích của các dân tộc có lịch sử lâu đời để chăm sóc sức khỏe.
Việc sử dụng tảo Spirulina từ châu Phi cho cả thế giới là một minh
chứng.Tôi phải giới thiệu sơ qua một chút “lý lịch” của ông Ưng
Viên, không phải để nhấn mạnh cái gốc hoàng tộc của con người này, mà
vì nó liên quan đến tư cách “dụng trầm” và y thuật của ông. Mọi người
đều biết, Lê Quý Đôn ở Đàng Ngoài, mà trầm thì xuất từ Trung Bộ, nên dù
là một nhà bác học nhưng Lê Quý Đôn chỉ có thể khảo sát qua tư liệu cổ
và hỏi thêm một số người khai thác trầm để viết sách, ông không thể có
cơ hội trải
nghiệm với trầm. Còn nhà Nguyễn, chính là gia tộc dụng trầm số 1, tính
từ Nguyễn Hoàng (Chúa Tiên) trở đi.Có những cuộc tương ngộ làm nên
lịch sử. Riêng cuộc tương ngộ giữa Nguyễn Hoàng và Nguyễn Bỉnh Khiêm thì
làm nên một cuộc xoay trời chuyển đất. Đọc sử sách ta chỉ biết đến lời
khuyên nổi tiếng “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân” mà Nguyễn Bỉnh
Khiêm nói với Nguyễn Hoàng, nghe lời khuyên đó mà họ Nguyễn được bảo
toàn để cho Việt Nam có thêm một nửa giang sơn gấm vóc. Nhưng không lẽ
Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ giúp cho Chúa Tiên một lời khuyên thôi sao? Sử
sách không ghi thêm điều gì nữa. Sử sách cũng chỉ cho biết Nguyễn Bỉnh
Khiêm là ông Trạng Trình tinh thông dịch số, là nhà nho yêu nước thương
dân, là một ẩn sĩ “thu ăn
măng trúc đông ăn giá”, là một nhà tiên tri. Chỉ là nhà tiên tri sao có
thể khiến được cả ba nhà Mạc, Trịnh, Nguyễn đều đến xin tham vấn trong
những thời điểm ngặt nghèo? Nhà tiên tri, dù nổi tiếng đến đâu cũng chỉ
có thể thuyết phục được người thường, đâu có thể khiến nổi các bậc đế
vương đem sự nghiệp tiền đồ của mình mà gửi gắm. Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn
còn là sự bí ẩn của lịch sử.Cho đến một buổi trưa ông Ưng Viên đãi
tôi ăn món thịt dê do chính ông nấu. Tôi chưa bao giờ được ăn món thịt
dê ngon như vậy. Nó ngon dĩ nhiên là do sự thiện nghệ của người nấu,
nhưng nó còn ngon hơn vì câu chuyện được nghe. Ông Ưng Viên nói một
trong những thứ mà Chúa Tiên mang vào Nam là những đàn dê, việc này do
chính Nguyễn Bỉnh Khiêm
đề nghị. Dê là con vật độc đáo, không những có giá trị y thực phục vụ
sức khỏe cho dân chúng, mà còn rất tiện ích cho hậu cần quân sự. Dê dễ
nuôi, có thể dẫn các đàn dê theo quân, khi có chiến sự chúng ở đâu nằm
im ở đó không chạy nhặng xị như trâu bò gà vịt, lại dễ phân phối trong
quân, một con dê có thể phục vụ gọn bữa ăn cho một “tiểu đội”. Cha ông
của ông Ưng Viên dặn dò con cháu ngoài việc nhớ ơn và thờ phụng tổ tiên
mình, còn phải nhớ ơn và thờ phụng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bởi Nguyễn Bỉnh
Khiêm là người đề xuất với Chúa Nguyễn từ chiến lược chiến thuật, từ
chuyện quân cơ, hậu cần cho đến những chuyện cụ thể liên quan đến bảo vệ
sức khỏe cho quân dân như món ăn, bài thuốc để làm hành trang Nam tiến.
Trong đó
có chuyện “dụng trầm”.Nhà Nguyễn để lại nhiều di sản, có thứ để lại
cho lịch sử, có thứ chỉ để lại cho con cháu. Những ai nói công thức
rượu Minh Mệnh đã bị thất truyền là nhầm to. Hoàng tử Vĩnh Giu con vua
Thành Thái, thuộc hàng cháu nội ông Ưng Viên, lúc khốn khó đã bỏ rượu
cho các nhà hàng để sinh sống, đó là rượu Minh Mệnh chính hiệu. Ông Ưng
Viên cho hay ông Vĩnh Giu có giữ bí quyết làm men nhưng không biết làm
rượu, chính ông đã làm rượu giúp cho ông Vĩnh Giu. Rượu cung đình nhà
Nguyễn có tới 175 dòng men, hơn 3.000 loại rượu. Ông Vĩnh Giu lưu giữ
được 30% dòng men, ông Ưng Viên giữ được 70%. Chỉ riêng hai ông gộp lại
cũng đã đủ 175 dòng, không có dòng men nào thất truyền cả, chỉ có điều
là chúng không được truyền ra
ngoài.Còn việc dụng trầm thì kế thừa tri thức của tiền nhân do
Nguyễn Bỉnh Khiêm truyền lại, nhà Nguyễn đã có gần 400 năm ứng dụng trầm
hương trong y học và đời sống, kể cả phục vụ quốc phòng, rồi hoàn thiện
pho y lý về trầm hương, đồng thời có chính sách hữu hiệu bảo vệ triệt
để nguồn tài nguyên trân quý ấy. Ông Ưng Viên kế thừa đủ di sản dụng
trầm của dòng họ, do ông nội ông truyền lại, những bí quyết đó cũng
không truyền ra ngoài.
“Thọ thiên địa chi khí...”
 |
Trầm hương và vòng đeo tay bằng kỳ nam |
Hương
trầm bao hàm đủ 5 vị ngọt mặn chua cay đắng, phát ra hơn 170 mùi thơm
có thể phân biệt được. Dùng một dụng cụ xông hương, cho vào một loại
trầm thông
thường, trong 24 giờ sẽ có 8 đợt phát hương, mỗi đợt là một phức hợp
mùi vị với mùi chủ đạo khác nhau…
Trầm hương sinh ra từ cây dó (cá
biệt cây xương rồng cũng có thể cho ra trầm). Trong thiên nhiên có nhiều
loài dó, nhưng theo ông Ưng Viên thì chỉ có cây dó bầu mới cho ra thứ
trầm có thể chữa bệnh được.
Trên thế giới, trầm tập trung chủ yếu ở 6
nước: Việt Nam, Campuchia, Lào, Myanmar, Indonesia, Malaysia, trong đó
trầm Việt Nam có dược lý tốt nhất, những nghiên cứu khoa học mới đây về
trầm của các nhà khoa học Nhật Bản và Trung Quốc cũng xác nhận trầm Việt
Nam có nhiều hoạt chất mà trầm các nơi khác không có.
Ông Ưng Viên
còn lưu ý: Trầm hương và kỳ nam là khác nhau, không phải kỳ là cái lõi
của trầm. Một cây dó có trầm dù
lâu năm đến bao nhiêu cũng không nhất thiết có kỳ nam, ngược lại một
cây dó có kỳ nam không nhất thiết có trầm bên cạnh. Chúng được tương tác
bởi hai loài nấm khác nhau. Kỳ nam hiếm hơn nên mắc tiền hơn, nó quá
mắc tiền vì từ lâu nó được con người sở hữu như một “linh vật”, nhưng
giá trị chữa bệnh và ứng dụng trong đời sống của kỳ nam thì không bằng
trầm.
Tại Việt Nam, trầm tốt nhất tập trung ở vùng Phú Yên, Đắk Lắk,
Khánh Hòa, Ninh Thuận, đây chính là “quê hương” của trầm, loài người
phát hiện ra trầm khởi thủy là từ vùng này. Trước đây, từ Việt Nam, trầm
được dùng làm cống phẩm đưa sang Trung Quốc. Trong các cống phẩm, trầm
hương là thứ quý nhất. Tất nhiên các thầy thuốc giỏi nhất được cống theo
để “hướng
dẫn cách sử dụng”. Và từ đây, trầm hương đã theo con đường tơ lụa sang
Trung Cận Đông, Địa Trung Hải...
“Thọ thiên địa chi khí, tẩy vũ trụ
chi trược, giáng khí trừ đàm, thiện trị phế phủ, chỉ tả bổ dương, thị là
thế thượng trân chi giả...”, đó là đoạn tóm tắt y lý của trầm hương
trích trong sách gia truyền của cung đình nhà Nguyễn mà ông Ưng Viên đọc
cho tôi nghe, tạm dịch: “Tích tụ khí thiêng của trời đất, tẩy trừ mọi
thứ ô uế trong không gian, có tác dụng giáng khí trừ đàm, chữa các bệnh
thuộc phế phủ, chữa các bệnh về tiêu hóa, bài tiết, thận và tim mạch
(chỉ tả bổ dương - nghĩa rộng), chính là thứ trân quý nhất”.
Trầm có thể được sử dụng trong cả ngàn bài thuốc khác nhau, nhưng trước hết hãy nói về
“thọ thiên địa chi khí”.
Ai cũng biết không phải cây dó bầu nào cũng
có thể sinh ra trầm. Trong rừng tự nhiên từ 1.000 đến 1.500 cây mới có
một cây có trầm và từ 10.000 đến 20.000 cây có trầm mới có một cây có kỳ
nam.
Khi cây dó bị một vết thương, vết thương đó phải đọng nước qua
một mùa mưa, cây dó mới bắt đầu tiết ra chất nhựa xung quanh vết thương
để tự vệ. Người ta thấy nhiều cây dó cho trầm chi chít những mắt trên
thân cây, những mắt chi chít đó là vết tích do một loài côn trùng đục
vào thân cây, dân gian gọi nó là con bọ xòe.
Khi chất nhựa dần dần
trở nên đậm đặc, lúc ấy những con kiến sẽ bò vào ăn chất nhựa này. Đó là
một loài kiến cao cẳng, màu vàng hoặc màu đen.
Chính những con kiến
kia mang theo các phân tử
trầm hương (một loài nấm) vào “cấy” trong lớp nhựa. Loài nấm này tương
tác với các hoạt chất của lớp nhựa, dưới tác động của khí hậu bên ngoài
và sự tương tác diễn ra trong một thời gian rất dài mới sinh ra trầm,
tương tác càng lâu trầm càng có giá trị. Thông thường, cây dó phải có
tuổi thọ hơn 50 năm mới có thể cho ra một thứ trầm có giá trị chữa bệnh.
Về
giống “kiến cao cẳng” mang phân tử trầm vào cây dó, ông Ưng Viên lưu ý
không phải kiến cao cẳng nào cũng làm được điều này. Phải theo dõi rất
nhiều năm mới phát hiện ra, chúng không bao giờ làm tổ trên những cây
trầm. Đây là giống kiến rất quý về dược liệu, trứng của nó rang lên có
thể chữa được chứng méo miệng, cấm khẩu (liệt dây thần kinh số 7, số
21). Trứng
của giống kiến này không thiếu trong kho tàng dược liệu của ông Ưng
Viên.
Tôi hỏi xin ông một tấm hình về những con kiến đó, ông lắc đầu
từ chối: “Tuyệt đối không nên đăng ảnh của nó lên trên báo, đăng lên là
nó bị người ta tận diệt ngay. Người của tôi đi lấy trứng kiến, mỗi lần
lấy không bao giờ quá 1/3 tổ trứng. Lấy tới 1/2 là nó tuyệt chủng rồi”.
Ông Viên còn mô tả những đặc tính của loài kiến trên nhưng tôi không dám
ghi ra đây vì cũng sợ chúng sẽ bị... tuyệt chủng.
Quá trình hình
thành trầm hương theo một “cơ chế” tưởng chừng đơn giản như vậy nhưng
thật ra là vô cùng kỳ bí. Cho nên người xưa nói “thọ thiên địa chi khí”
là đúng nhất. Con người đã khẳng định hương trầm là “vua của các mùi
hương”. Hàng
ngàn năm nay trầm được xông trong các cung điện vua chúa, tại các lễ
nghi thiêng liêng của các tôn giáo. Nó là “danh hương” trong các nghi lễ
tôn giáo.
Trong thiên nhiên có rất nhiều thực vật có tinh dầu phát
hương ra không gian, nhưng chỉ có trầm là thứ mà nguồn phát ra hương
không bao giờ cạn, từ lúc trong rừng núi cho đến khi đem ra chế tác, lưu
giữ. Người ta phát hiện các mảnh trầm nằm dưới đáy các giếng cổ Chămpa,
qua hàng ngàn năm mà khi lấy lên hương thơm vẫn còn nguyên vẹn. Ngày
nay trầm còn được dùng làm chất định hương cho mỹ phẩm, nước hoa Chanel
No.5 và các thứ nước hoa nổi tiếng khác trên thế giới không thể không có
trầm hương.
Hương trầm bao hàm đủ 5 vị ngọt mặn chua cay đắng, phát
ra hơn 170 mùi thơm có thể phân biệt được
(riêng kỳ nam có ít mùi hơn và không có vị ngọt). Dùng một dụng cụ xông
hương, cho vào một loại trầm thông thường, trong 24 giờ sẽ có 8 đợt
phát hương, mỗi đợt là một phức hợp mùi vị với mùi chủ đạo khác nhau,
thay đổi theo thời gian, khi thì mùi hoa sen, khi thì mùi hoa hồng, khi
thì vani, khi thì mùi gỗ thông, khi thì mùi xạ hương... Điều lạ lùng nữa
là trong những thời điểm giống nhau mà tại địa điểm khác nhau mùi trầm
hương cũng thay đổi.
Điều này khoa học chưa đủ khả năng giải thích.
Một nhóm nhà khoa học Nhật Bản đã thử làm khảo cứu phân biệt hương thơm
của một số sesquiterpen carboxylic acid trong tinh dầu trầm và nhận thấy
có khi chỉ vì vị trí của một dấu nối đôi như hai chất selina-3,11 và
selina-4,11 dienal mà mùi hương rất khác
nhau, chất thứ nhất có mùi gỗ, mùi hoa hòa với mùi khói, chất kia phảng
phất hương bạc hà.
Bốn chất đồng phân neopetasan, epineopetasan,
dihydro karanon, ngoài vị trí các dấu nối đôi, còn khác nhau ở hướng các
nhóm methyl cũng cho ra các mùi khác nhau (dẫn theo tiến sĩ Võ Quang
Yến, Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Đà Nẵng 2008). Khoa học chỉ mới
biết tới đó, còn vì sao lại có sự “biến tấu” như vậy thì khoa học đành
chịu, ở đây vẫn là quá trình “thọ thiên địa chi khí”.
Dụng trầm
 |
Chế tác trầm thành tác phẩm nghệ thuật tại xưởng trầm nhà ông Ưng Viên |
Trầm có tác dụng tuyệt hảo đối với sức khỏe con người, theo 3 con đường: xông, uống và ăn.
Trầm trong thiên nhiên có tác dụng khử độc không khí, trừ lam chướng, làm trong
sạch môi trường sống. Người xưa biết rõ điều này nên mới tổng kết: “tẩy vũ trụ chi trược”.
Khử uế một cách triệt để.
Tính
chất “tẩy vũ trụ chi trược” có thể đem áp dụng để khử uế. “Khử uế một
cách triệt để, ngoài trầm hương không thứ gì giải quyết được”, ông Ưng
Viên khẳng định. Và tôi được biết một câu chuyện thú vị.
Vào năm
2008, một tàu của Mỹ chở thuê hải sản tải trọng 1 vạn tấn, khi cập cảng
Nhà Bè (TP.HCM), cảng vụ phát hiện tàu bị ô nhiễm nặng (mùi hôi thối quá
mức), nên không cho phép xuất cảng vì theo quy định quốc tế thì tàu
phải được xử lý ô nhiễm mới được rời khỏi cảng. Kỹ thuật khử uế của
người Mỹ trên tàu không giải quyết được. Cảng vụ phải mời các chuyên gia
của một
viện từ Hà Nội vào xử lý cũng không xong.
Người phụ trách công việc ở
cảng có quen biết với ông Ưng Viên nên mời ông thử xử lý giúp. Ông Ưng
Viên đồng ý, với một điều kiện: các thủy thủ phải uống một thứ rượu có
pha… nguyên liệu xử lý tàu. Quá khiếp với điều kiện này, nhưng thấy
người ở cảng “gương mẫu” uống trước, các thủy thủ cũng uống.
Chỉ sau 1
ngày 1 đêm, ông Ưng Viên đã giúp xử lý sạch con tàu bằng hai phương
pháp: nửa phun, nửa xông. Các thủy thủ vô cùng kinh ngạc về kết quả trên
đã gọi điện cám ơn ông rối rít và vui mừng cho biết sau khi uống thứ
rượu đó sáng ngủ dậy trong người lại khỏe ra. Rượu đó chính là rượu pha
trầm. Còn thứ nước phun xử lý tàu thì vẫn còn 60 lít họ xin được mang
theo.
Kể
lại câu chuyện này với tôi, ông cười nói: “Tôi cho họ mang về 60 lít
nước đó, nhưng chắc chắn họ không thể phân tích được nó có những chất
gì”. Phương pháp của ông là di sản gia truyền “Bí mật quân lương và khử
uế tàu chiến” của cung đình nhà Nguyễn. Chất liệu căn bản của nó là trầm
hương và trà.
Tác dụng tuyệt hảo đối với sức khỏe.
Trầm có tác dụng tuyệt hảo đối với sức khỏe con người, theo 3 con đường: xông, uống và ăn.
Về
y lý, hương trầm xông lên có tác dụng điều khí, rất tốt cho sức khỏe.
“Xông hương trầm thường xuyên không bị máu đông ở động mạch, phổi không
bị nghẽn, xoang không bị viêm, không u bướu, không liệt dương liệt âm
lãnh cảm…”, ông Ưng Viên vừa nói vừa đưa tôi tới gần bình xông trầm
đang ngát hương. Cái bình xông trầm này do ông cùng 2 kỹ sư người Nhật
và Đài Loan nghiên cứu chế tạo, nguyên liệu được lấy bằng thứ cát đặc
biệt tại Nha Trang ở độ sâu 20 mét. Bình xông trầm hiện nay trên thị
trường có thứ của Nhật, có thứ của Hàn Quốc, có thứ của Trung Quốc, Đài
Loan, xông bằng những cái bình ấy có thể giải phóng được 50% hương trầm,
còn bình xông của ông có thể giải phóng được 95%.
Ông Ưng Viên tỏ ra
bức xúc về vấn nạn sức khỏe do môi trường ô nhiễm hóa chất và thức ăn
công nghiệp hiện nay khiến cho các bệnh về hô hấp và tiêu hóa gia tăng.
Hai phương thang: Ôn tì bình vị (gồm trầm, xuyên bối mẫu, toàn quy,
thăng ma, bạch truật…) và Kiện tì tiêu thực (gồm trầm, xuyên khung, bạch
truật, toàn quy, liếu tiếu
thảo…) có thể giải quyết triệt để các bệnh này, không tái phát.
Các
thang “Thanh khí ôn phế”, “Điều huyết dưỡng khí”, “Nhứt dâm cửu dựng”,
“Ôn dương cố thận”… như tên gọi của chúng, chữa những bệnh về đường hô
hấp, khí huyết, bổ dương… đều dùng trầm làm vị chủ. Ông Viên không coi
trọng những bài thuốc “tráng dương”. “Tráng dương” thì nhất thời. “Bổ
dương”, “ôn dương” mới là sự bền vững, mà chuyện này thì không thứ gì
qua nổi trầm.
Việc dụng trầm của ông Viên hình như đạt đến độ xuất
thần nhập hóa. Như trên đã nói, trong những giờ khác nhau trầm tỏa ra
các mùi hương khác nhau. Chỉ riêng việc lấy trầm từ cây trầm ra để chế
biến cũng được thực hiện vào những thời khắc thích hợp, tùy theo
khí hậu, loại bệnh và đặc tính của từng người bệnh. Ngay cả trong
chuyện đơn giản hơn như ẩm thực, ông cũng áp dụng các nguyên tắc này.
Ông
nói cũng là thứ rau húng trồng trong một vườn rau nhưng có khi ăn thấy
ngon, có khi ăn không thấy ngon. Vì sao vậy? Vì rau ăn không ngon là do
hái không đúng giờ. Rau húng phải hái vào lúc 5 - 6 giờ sáng hoặc 5 - 6
giờ chiều thì ăn mới ngon, vì những thời điểm đó rau tiết ra những chất
tốt nhất, còn các giờ khác thì rau tiết ra một số chất xấu.
Sự trải
nghiệm với trầm của ông Ưng Viên còn thể hiện ở lượng trầm mà ông đang
có. Hơn 30 năm nay ông đã dùng hết tài sản và đi vay mượn để tích lũy cả
một kho tàng: Hơn 60 tấn trầm và kỳ nam, gồm 36 cây trầm lớn, bình quân
mỗi cây gần 2 tấn, mật độ
ăn trầm từ 60-80%. Những cây trầm ông giữ đều được lấy theo đúng nguyên
tắc: tất cả đều đã chết rũ trên rừng, vận chuyển về đều hợp pháp, có
dấu búa kiểm lâm. Phần lớn những cây trầm ông đang có là độc nhất vô
nhị, không còn tồn tại trong thiên nhiên.
Nhà ông ở TP.HCM có một
xưởng chế tác trầm, có một “đội thợ trầm hoàng tộc” - là hậu nhân của
các thợ trầm cung đình khi xưa giúp việc. Ông và những người thợ tạc
những cây trầm thành các tác phẩm nghệ thuật để lưu giữ lại cho con
cháu, ông chưa hề bán và sẽ không bán một kg trầm nào. Ông dùng lớp vỏ
sát lõi có nhiễm tinh dầu trầm và kỳ nam để làm thuốc, đó là phần làm
thuốc tốt nhất. Lớp ngoài nữa, nhiễm tinh dầu ít hơn, ông dùng làm
nguyên liệu cho nồi xông
chữa bệnh. Lớp ngoài cùng dùng làm hương.
Tôi nhiều lần được đến xem
xưởng trầm của ông, nghe ông giới thiệu xuất xứ của từng cây trầm và
đặc tính của từng loại trầm. Ở đây có đủ các loại trầm, các loại kỳ nam.
Tôi hỏi ông, ông Lê Quý Đôn nói đốt trầm lên thì khói xoáy rồi sau mới
tan, còn đốt kỳ nam thì khói lên thẳng và dài, nói như vậy có đúng
không. Ông cười, bảo rằng nhà bác học Lê Quý Đôn rất giỏi nhưng ông ấy
không có cơ hội tiếp cận đầy đủ với “hiện vật” nên vừa đúng vừa sai.
Khói
vút lên thẳng như sợi dây là đúng, nhưng chỉ đúng với kỳ nam hương
thôi, còn các loại kỳ nam khác thì khói vẫn xoáy. Ông vừa nói vừa chỉ
vào một cái hốc của cây trầm cao to trong xưởng đã tạc thành tượng, ở đó
lộ ra
một cái lõi to và dài màu vàng sậm: “Kỳ nam hương là thứ này đây, chỗ
này ít nhất cũng vài chục kg”. Kỳ nam hương giá rẻ hơn các loại kỳ nam
khác, khoảng 2 - 3 tỉ đồng trên thị trường thế giới, nhưng có giá trị
chữa bệnh tốt nhất trong các loại kỳ nam, tuy kém thua trầm.
Trầm kết
hợp với thịt dê - ngọc dương, nghệ vàng, nghệ đen, măng tre (vắt lấy
nước), nước gạo rang … ăn vào có thể làm sáng mắt, thính tai, trị chứng
đau nhức.
Trầm kết hợp với chè, có thể ngừa và trị được các “mắc mứu” ở phổi, đường hô hấp, tim mạch, tiêu hóa.
Trầm làm rượu, uống vào sáng mắt, trị viêm họng, đau dạ dày, nghẽn động mạch tim, làm mạnh thần kinh cơ bắp.
Trầm kết hợp với vảy cá rô đồng có thể trị triệt để các bệnh
về tiêu hóa của trẻ nhỏ.
Trầm kết hợp với vảy cá rô đồng cộng thêm với chè có thể chữa kiết lỵ, tiêu chảy, thương hàn.
Trầm kết hợp với trúc nhự (dịch măng tre) có thể chữa chứng cành hông, làm tiêu hóa không bị xáo trộn.
Trầm kết hợp với ma hoàng trị được các bệnh phụ khoa.
Trầm dùng trong thang “Diệc nhan minh mục” (kết hợp với các thảo dược khác) làm cơ thể trẻ lại, mắt sáng ra.